Kênh History Television có một series truyền hình rất hay mang tên “Dogfights” (Những trận không chiến) nói chủ yếu về những trận đối đầu của các phi công Không quân Mỹ trong các cuộc chiến tranh mà Mỹ tham gia từ thế chiến thứ nhất, thứ hai đến chiến tranh Triều Tiên, Lybia, Việt Nam … và sau này là Irắc. Điểm hấp dẫn của show truyền hình này là dùng kĩ thuật đồ họa để mô phỏng như thật các trận chiến qua lời kể của những người trực tiếp tham gia và các hình ảnh tư liệu hiếm hoi còn lưu lại. Thậm chí nếu không được nói trước chắc ít người nghĩ đây chỉ là hình ảnh giả lập, vì tất cả đều rất sống động và như thật.

Chợt nghĩ giá như ở VN cũng có một kênh truyền hình như vậy thì còn gì bằng, cho dù chúng ta không hề tham gia vào Đệ nhất Thế chiến hay Đệ nhị Thế chiến, nhưng chỉ những gì diễn ra trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thôi cũng quá đủ tư liệu rồi. Nếu làm được điều đó thì chắc chắn sẽ có rất rất nhiều những người trẻ biết và tự hào hơn về Binh chủng phòng không không quân Việt Nam. Còn hiện tại có lẽ ít bạn nào biết rằng Không quân VN từng được sự kính trọng từ Không lực Mỹ vốn được xem là Binh chủng mạnh nhất thế giới. Nếu để 20-30 năm nữa chắc không còn huyền thoại sống nào, thì lúc đó có muốn làm cũng đã muộn.
Tuy nhiên đó chưa phải là mục đích chính của entry này. Khi xem chương trình trên, có cảm giác như Không lực Mỹ (USAF) là ưu việt và bất khả chiến bại, luôn giành chiến thắng trong những trận đối đầu trực tiếp. Điều khá đặc biệt là, trong khi các phi công Mỹ có thể giành chiến thắng tương đối dễ dàng ở các cuộc không chiến trong chiến tranh Triều Tiên thì họ lại gặp nhiều khó khăn khi đối đầu với các phi công Bắc Việt (nhưng cuối cùng vẫn luôn giành phần thắng) và trong các lần đó, lực lượng máy bay của Bắc Việt luôn nhiều hơn hẳn đối phương. Điều này làm cho “tự ái dân tộc” nổi lên, vì theo mình biết thì Binh chủng phòng không không quân VN đã diệt rất nhiều máy bay Mỹ và thường có lực lượng kém hùng hậu hơn đối phương khá nhiều (chắc không ít người biết đến Hỏa Lò – được tù binh Mỹ gọi đùa là Khách sạn Hilton – là nơi giam giữ rất nhiều phi công Mỹ bị buộc nhảy dù sau khi máy bay bị bắn rơi trong đó có thượng nghị sĩ John McCain, là ứng cử viên tổng thống năm 2000 và 2008). Sau một hồi đào xới trên Internet, may mắn tìm được bài viết "Phi công MiG-17 và MiG-21, những sát thủ diệt Con Ma và Thần Sấm” của Diego Fernando Zampini, một người mà theo lời ông, lúc nhỏ xem truyền hình Mỹ thì luôn nghĩ người VN là xấu. Đang loay hoay dịch thì may quá tìm được bài dịch của bác Ngô Ngọc Phương ở một site khác.
Để tiện theo dõi, xin được chú thích một chút về các khái niệm "máy bay ném bom", "máy bay cường kích" và "máy bay tiêm kích":
1. Máy bay ném bom (tên Hán Việt là oanh tạc cơ) là loại máy bay dùng cho mục đích quân sự được sử dụng để tấn công các mục tiêu trên mặt đất, chủ yếu bằng thả bom.
- Máy bay ném bom chiến lược: được thiết kế dành cho các phi vụ tấn công tầm xa vào các mục tiêu chiến lược như các căn cứ hậu cần, cầu cống, nhà máy, xưởng đóng tàu và các thành phố với ý đồ gây ngăn cản nỗ lực chiến tranh của đối phương. Ví dụ: B-52, Tu-160...
- Máy bay ném bom chiến thuật là loại máy bay nhỏ hơn, tầm hoạt động ngắn, chủ yếu là hỗ trợ các lực lượng trên mặt đất. Trong khái niệm quân sự hiện đại, những máy bay chiến đấu không phải là máy bay ném bom chiến lược đều được xếp vào loại này.
3. Máy bay tiêm kích (Hán Việt: tiêm kích cơ/chiến đấu cơ, tiếng Anh: Fighter aircraft), trước kia còn gọi là máy bay khu trục, loại máy bay chiến đấu dùng để diệt các máy bay và các khí cụ bay khác của đối phương ở trên không. Cũng có thể dùng để trinh sát đường không hoặc đánh phá các mục tiêu mặt đất, biển. MBTK hiện đại có tốc độ trên tốc độ âm thanh (tới 2.700 km/h), tính cơ động cao, trần bay thực tế 18 - 21 km, bán kính hoạt động 1.500 - 2.000 km, trang bị vũ khí (súng, pháo, bom, tên lửa) mạnh, hoạt động được trong mọi thời tiết, cả ngày và đêm.
Dưới đây là bài dịch của bác Ngô Ngọc Phương (có chú thích thêm và chỉnh sửa một số chỗ cho phù hợp với nguyên bản tiếng Anh - để đảm bảo tính khách quan):
Ngày 23 tháng Tám 1967, lúc 14 giờ, một trận tập kích đường không nữa của Không lực Hoa Kỳ vào thủ đô ở miền Bắc của Việt Nam đang được tiến hành.
Do lực lượng được phái đi rất đông (40 máy bay, bao gồm các máy bay Thần sấm F-105 (Thunderchiefs) mang bom, F-105F làm nhiệm vụ chế áp các dàn rađa điều khiển tên lửa SAM của Việt Nam và các Con Ma F-4 (Phantom F-4) làm nhiệm vụ hộ tống), tổ bay của một trong những chiếc F-4D, Charles R. Tyler (phi công) và Ronald M. Sittner (sỹ quan hỏa lực) của phi đội chiến thuật 555 thuộc phi đoàn chiến thuật 8, cảm thấy rất tự tin. Họ không trông đợi sự tiếp đón của MiG, có vẻ như đã bị tê liệt sau những thất bại đẫm máu chống lại F-4 của Phi đoàn 8 cuối tháng Năm và đầu tháng Sáu. Bỗng nhiên Tyler nghe trong rađiô tiếng của một phi công của chiếc F-105D (Elmo Baker) thông báo rằng anh ta bị MiG tấn công và phải nhảy dù. Tyler còn đang cố tìm xem đồng đội đang ở đâu thì một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả máy bay, Tyler mất khả năng điều khiển và bị bắn bật ra ngoài. Treo lơ lửng dưới những múi dù, anh ta nhìn thấy chiếc F-4D bốc cháy rơi xuống rừng rậm, còn người sỹ quan hỏa lực thì không thấy nhảy dù ra – Sittner đã bị giết bằng chính quả tên lửa đã bắn vào máy bay. Cả Tyler và Baker đều bị bắt bởi lính Bắc Việt ngay khi tiếp đất.
Cả hai máy bay Mỹ đều bị bắn hạ bởi tên lửa không đối không R-3S Atoll của hai chiếc MiG-21PF “Fishbed” (Tên Mỹ đặt cho MiG-21) của Trung đoàn 921 của Quân chủng Không quân (Lực lượng không quân Việt Nam) lái bởi Nguyễn Nhật Chiêu và Nguyễn Văn Cốc. Hai chiếc F-4D khác cũng bị hạ mà không có thiệt hại nào của MiG. Quả là một ngày chiến đấu thành công của họ.
Hình 2 - MiG-17 Fresco của Binh chủng phòng không không quân Việt Nam

Hình 3 - MiG 21 Fishbed của Binh chủng phòng không không quân Việt Nam
Hình 4 - F-4J Con Ma (Phantom) của Không lực Hoa K

Hình 5 - F-105D Thần Sấm (Thunderchief) của Không lực Hoa Kỳ
Trong khi chỉ có hai phi công Mỹ trở thành Át trong chiến tranh Việt Nam, Randy "Duke" Cunningham (Hải quân Hoa Kỳ) ("Duke" là Công tước nhưng tiếng lóng nghĩa là nắm đấm) và Steve Ritchie (Không lực Hoa Kỳ) thì có đến 16 phi công Việt Nam đạt được danh hiệu tự hào đó. Nguyễn Văn Cốc là Át chủ bài dẫn đầu của nhóm các phi công này, với thành tích 9 máy bay Mỹ (7 máy bay và 2 chiếc “xe trên trời không người lái” Firebee). Trong số 7 chiếc của anh, có 6 chiếc được chính thức xác nhận bởi Không lực Hoa Kỳ, nhưng chúng ta có thể ghi thêm vào đó một chiếc thứ 7 nữa, chiếc F-102A của phi công Mỹ Wallace Wiggins (chết) bị hạ ngày 3 tháng Hai năm 1968, được phía Hoa Kỳ xác nhận mất tích mà nguyên nhân có thể do bị Không quân VN tiêu diệt. Bỏ qua hai “con ong ngớ ngẩn” không người lái, thì Nguyễn Văn Cốc vẫn là phi công “đỉnh” nhất trong chiến tranh trên bầu trời Bắc Việt vì không có bất cứ một phi công Mỹ nào đạt được thành tích hạ trên 5 chiếc.
Vậy thì tại sao các phi công Việt Nam lại ghi được nhiều bàn thắng hơn các phi công Mỹ? Có lẽ lý do đầu tiên là số lượng. Trong năm 1965, Không quân Việt Nam chỉ có 36 chiếc MiG-17 với một số lượng tương đương phi công. Đến năm 1968 thì số máy bay cũng chỉ tăng thành 180 chiếc MiG và 72 phi công. Sáu “tiểu đội” phi công dũng cảm này phải đối mặt với 200 chiếc F-4 của các phi đoàn 8, 35 và 366; khoảng 140 chiếc Thần sấm F-105 của các phi đoàn 355 và 388 của Không lực Hoa Kỳ và khoảng 100 chiếc của Hải quân Hoa Kỳ (F-8, A-4 và F-4) từ tàu sân bay “Yankee Station” trực chiến trong Vịnh Bắc Bộ, kiêm cả các nhiệm vụ hỗ trợ hoạt động không kích (EB-6B – gây nhiễu; HH-53 – cứu phi công nhảy dù; “Skyraider” yểm hộ hai loại trên).

Hình 6 - Tàu sân bay Yankee Station (Hàng không mẫu hạm)

Hình 8 - A4 của Hải quân Hoa Kỳ
Hình 9 - Skyraider làm nhiệm vụ yểm trợ
Hình 10 - Trực thăng HH-53 giải cứu phi công nhảy dù do bị bắn rơi
Như vậy, phi công Việt Nam rõ ràng là “bận rộn” hơn đối thủ, và đồng thời họ dễ dàng tìm được mục tiêu để diệt hơn, và quan trọng là họ chiến đấu với tinh thần “chiến đấu đến khi hy sinh”. Họ không cần phải về nhà, vì đây đã là nhà của họ rồi – Tổ quốc. Phi công Mỹ cứ sau 100 chuyến xuất kích lại được về thăm nhà, ngoài ra còn được về để huấn luyện, để nhận lệnh hoặc trăm thứ việc linh tinh khác. Một số ít đề nghị quay lại chiến đấu, nhưng đó chỉ là ngoại lệ.
Về chiến thuật của hai phía:
Bởi vì Không lực Hoa Kỳ đã không tấn công tiêu diệt các dàn rađa và trung tâm chỉ huy bay của Bắc Việt (họ lo sợ trong đó có các chuyên gia quân sự Liên Xô hoặc Trung Quốc (?)), người Việt Nam điều khiển các máy bay tiêm kích đánh chặn của họ với sự hướng dẫn tài tình từ các trạm điều khiển mặt đất để đưa những chiếc MiG vào các vị trí tập kích hòan hảo trên bầu trời. Những chiếc MiG nhanh như cắt và bất ngờ tấn công vào đội hình không quân Hoa Kỳ từ nhiều hướng khác nhau (thông thường, MiG-17 đánh vỗ mặt, MiG-21 đánh từ phía sau). Sau khi bắn rơi một vài chiếc trong đội hình Mỹ và buộc các máy bay cường kích F-105 phải hấp tấp vứt bỏ bom, không chờ đợi sự phản ứng của đối phương, các máy bay MiG biến mất. Chiến thuật “không chiến du kích” của không quân Việt Nam đã rất thành công. (Về quan điểm Không lực Hoa Kỳ không tiêu diệt các dàn ra đa và trung tâm điều khiển mặt đất Bắc Việt do sợ có các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc thì có lẽ nên xem xét lại, bởi Binh chủng pháo cao xạ phòng không của chúng ta sẽ không để họ làm điều đó một cách dễ dàng - Giả như làm được thì có lẽ họ đã tấn công vào các sân bay và máy bay quân sự của VN rồi, lúc đó thì chắc MiG chỉ còn nước ra ruộng mà cất cánh - Nam Nguyen).
Chiến thuật không chiến du kích này nhiều khi lại được sự hậu thuẫn của chính những thói quen thủ cựu đến kỳ quặc của không lực Hoa Kỳ. Ví dụ, vào cuối năm 1966, đội hình tấn công của F-105 đã bay hàng ngày vào một giờ cố định, trên một đường bay cố định và dùng những mật hiệu gọi nhau trong khi bay không thay đổi, lặp đi lặp lại trong rađiô. Các chỉ huy không quân Bắc Việt Nam đã không bỏ lỡ cơ hội: vào tháng Chạp năm 1966, các phi công MiG-21 của Trung đoàn 921 đã chặn được tụi Thần sấm trước khi chúng gặp được các tốp F-4 hộ tống, bắn rơi 14 chiếc F-105 mà chẳng mất chiếc MiG nào. Thói quen này kết thúc vào ngày 2 tháng Giêng năm 1967 khi Đại tá Robin Olds tiến hành chiến dịch “Bolo”.
Về huấn luyện
Giữa thập kỷ 1960, các phi công Mỹ được tập trung huấn luyện sử dụng tên lửa không đối không (như các loại AIM-7 Sparrow (dẫn đường bằng rađa) và AIM-9 (dẫn đường bằng hồng ngoại)) để giành chiến thắng trong không chiến. Tuy nhiên, họ đã “quên” rằng người phi công ngồi trong khoang lái quan trọng không kém vũ khí mà anh ta sử dụng. Nhưng không quân Việt Nam rất biết điều đó. Họ huấn luyện các phi công khai thác tính linh hoạt và cực kì cơ động của những chiếc MiG 17, 19 và 21 để đánh áp sát, khi mà những chiếc Con ma và Thần sấm nặng nề sẽ bị bất lợi. Chỉ cho đến năm 1972, khi chương trình “Top Gun” cải thiện kỹ năng không chiến của các phi công Mỹ trong Hải quân Hoa Kỳ như Randall Cunningham, và sự xuất hiện của chiếc F-4E tích hợp khẩu cà-nông 20mm “Núi lửa” (Vulcan) thì tình hình mới được cải thiện.
Cuối cùng, với mật độ đông đúc máy bay Mỹ trên bầu trời, với cái nhìn của các phi công Việt Nam thì đó là một “chiến trường giàu mục tiêu”, còn với các phi công Mỹ thì Việt Nam là một “mảnh đất nghèo nàn”. Các phi công Mỹ không có đủ mục tiêu để có thể san bằng tỷ số, bởi vì có quá ít MiG xung quanh! Thời đó, Không quân Việt Nam chưa bao giờ có quá 200 chiếc máy bay chiến đấu.
Tất cả những yếu tố đó đã tạo ra nhiều phi công Át Việt Nam hơn là Át Hoa Kỳ, và tạo điều kiện cho các phi công Át Việt Nam ghi được nhiều bàn thắng hơn các đối thủ Mỹ. Nói một cách chính thức thì có 16 phi công Át Việt Nam trong toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam (13 người là phi công MiG-21, 3 người là phi công MiG-17 và không có Át MiG-19). Trong danh sách dưới đây, con số trong ngoặc đơn ở cột “Chiến công” là số liệu được Không lực Hoa Kỳ chính thức xác nhận, và do đó trên thực tế số “bàn thắng” có thể cao hơn. (Vì lí do "sĩ diện" hoặc một số nguyên nhân chính trị khác mà không phải trường hợp bị bắn rơi nào cũng được Không lực Hoa Kì xác nhận. Chẳng hạn như trong chiến dịch 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không năm 1972, mỗi lần bắn rơi pháo đài bay B-52, chúng ta luôn phải tìm cách lấy cho được mảnh máy bay rơi để làm bằng chứng cho các cuộc đấu tranh chính trị, vì Không lực Hoa Kì hay tìm cách phủ nhận bị Bắc Việt bắn rơi - Nam Nguyen).
Danh sách các phi công Át MiG-17 và MiG-21 trong chiến tranh Việt Nam (không có MiG-19):
Phi công Át chủ bài của Không quân Việt Nam | Chiến công (*) | Chi tiết | Trung đoàn không quân tiêm kích | Máy bay |
Nguyễn Văn Cốc | 9 (7) | 2 F-4D, 1 F-4B, 2 F-105F, 1 F-105D và 1 F-102A | 921 | MiG-21PF |
Nguyễn Hồng Nhị | 8 (3) | 1 UAV, 1 F-4D, 1 F-105D. Bị bắn rơi một lần. | 921 | MiG-21 |
Phạm Thanh Ngân | 8 (1) | 1 RF-101C | 921 | MiG-21F-13 |
Mai Văn Cương | 8 (?) | - | 921 | MiG-21 |
Đặng Ngọc Ngữ | 7 (1) | 1 F-4C (22 tháng Năm 1967) | 921 | MiG-21 |
Nguyễn Văn Bảy | 7 (5) | 2 F-8, 1 F-4B, 1 A-4C và 1 F-105D | 923 | MiG-17F |
Nguyễn Đốc Soát | 6 (5) | 3 F-4E, 1 F-4J, 1 A-7B | 927 | MiG-21PFM |
Nguyễn Ngọc Độ | 6 (2) | 1 F-105F, 1 RF-101C | 921 | MiG-21 |
Nguyễn Nhật Chiêu | 6 (2) | 1 F-4 (trên MiG-17), 1 F-105D | 921 | MiG-17 & MiG-21 |
Vũ Ngọc Đỉnh | 6 (5) | 3 F-105D, 1 F-4D, 1 HH-53C | 921 | MiG-21 |
Lê Thanh Đạo | 6 (2) | 1 F-4D, 1 F-4J | 927 | MiG-21PFM |
Nguyễn Danh Kính | 6 (3) | 1 F-105D, 1 EB-66C, 1 UAV | 921 | MiG-21 |
Nguyễn Tiến Sâm | 6 (1) | 1 F-4E | 927 | MiG-21PFM |
Lê Hải | 6 (2) | 1 F-4C, 1 F-4B | 923 | MiG-17F |
Lưu Huy Chao | 6 (1) | 1 RC-47 606 ACS | 923 | MiG-17F |
Nguyễn Văn Nghĩa | 5 (1) | - | 927 | MiG-21PFM |
(*) Trong ngoặc là con số dc ghi nhận chính thức trong báo cáo thiệt hại của Hoa Kỳ. |
Tại sao không có tên Đại tá Toon?
Những độc giả hiểu biết về Không lực Hoa Kỳ rất có thể đã từng nghe về người phi công Át huyền thoại của Việt Nam, đại tá Toon (hoặc Tomb). Nhưng vì sao ông không có trong danh sách ở đây? Bởi vì ông ta đúng là chỉ có trong “huyền thoại”. Chẳng có phi công nào là Đại tá Toon của Không quân Việt Nam, đó là nhân vật tưởng tượng của các phi công Mỹ và thường xuyên được họ đưa ra làm đề tài chuyện phiếm. Như là một thiện ý của các phi công Mỹ, đại tá Toon là một sự tổng hợp của các phi công giỏi của Việt Nam, giống như những “nghệ sỹ sôlô” ném bom đơn độc ban đêm trong chiến tranh thế giới II được gọi là “máy giặt Sác-li” vậy (washing machine Charlie).
(Còn tiếp)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét